Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã hạ cấp các hướng dẫn hạn chế đi lại đối với phụ nữ mang thai do đại dịch Zika đã không còn ở nhiều nơi trên thế giới. Tỷ lệ miển dịch Zika cao tại Tây bán cầu và các biện pháp kiểm soát đã được cải thiện ở Mỹ được cho là đã thúc đẩy giảm lây truyển virus. PHụ nữ mang thai và phụ nữ có thể mang thai được khuyến khích trao đổi các nguy cơ liên quan tới Zika khi đi du lịch với các nhà cung cấp dịch vụ sức khỏe và tránh đi tới những nơi có dịch Zika.
Thông tin
Trong một tổng quan hệ thống và phân tích gộp, các nhà nghiên cứu phân tích 57 nghiên cứu xác định mối liên quan giữa nhẹ cân lúc sinh và sốt rét do dùng sulfadoxine – pyrimethamine gián đoạn trong thai kỳ, cũng như các dấu chỉ phân tử kháng sulfadoxin-pyrimethamine. Nguy cơ tương đối nhẹ cân giảm 21%/liều sulfadoxine-pyrimethamine. Các nhà nghiên cứu cũng báo cáo giảm hiệu quả của sulfadoxine-pyrimethamine gián đoạn trong thai kỳ tại những nơi có ký sinh trùng sốt rét P falciparum kháng sulfadoxine-pyrimethamine cao. Khi phân tích đa biến, nguy cơ tương đối của sulfadoxine-pyrimethamine giảm tại các khu vực có tỷ lệ kháng cao, vừa và thấp là 7%, 21%, 27%. Dựa trên các kết quả này, các nhà nghiên cứu đề xuất liệu pháp thay thế nên được thực hiện tại những nơi có tỷ lệ ký sinh trùng lớn hơn 37%.
Nguồn: https://www.thelancet.com/journals/laninf/article/PIIS1473-3099(18)30732-1/fulltext
Các nhà nghiên cứu thực hiện thử nghiệm lâm sàng mù đôi có nhóm chứng để đánh giá hiệu quả của ribaxamase, enzyme beta lactamase đường uống, trong dự phòng nhiễm Clostridium difficile ở bệnh nhân nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới và viêm phổi. Kết quả cho thấy ribaxamase, khi dùng cho bệnh nhân nhiễm khuẩn hô hấp dưới cùng với tiêm ceftriaxone tĩnh mạch, giảm tỷ suất mới mắc C. difficile xuống 2,4% so với nhóm giả dược. Tỷ suất tử vong được báo cáo ở nhóm ribaxamase cao hơn nhưng không liên quan với thử nghiệm này.
Nguồn: https://www.thelancet.com/journals/laninf/article/PIIS1473-3099(18)30731-X/fulltex
Bộ y tế Cộng hòa Congo báo cáo thêm 11 trường hợp nhiễm Ebola tuần rồi tăng tổng số ca bệnh trong vụ dịch lên 991. Tổ chức sức khỏe thế giới lưu ý sự gia tăng các ca bệnh gần đây làm tăng các thách thức về an ninh.
Nguồn: https://www.who.int/csr/don/21-march-2019-ebola-drc/en/
Một thử nghiệm lâm sàng trên 6.983 bệnh nhân sử dụng vỏ lưới phóng thích kháng sinh làm giảm 40% khả năng nhiễm khuẩn từ phẫu thuật cấy ghép các thiết bị điện tử tim mạch so với các biện pháp phòng ngừa chuẩn độc lập. Kết quả chính trong thử nghiệm này được xem như nhiễm khuẩn dẫn đến loại bỏ hoặc sửa đổi hệ thống, liệu pháp kháng sinh do tái nhiễm hoặc tử vong chỉ xảy ra trên 35 bệnh nhân được dùng vỏ lưới so với 42 bệnh nhân trong nhóm chứng.
Từ 2006 đến 2012, tỷ suất mới mắc nhiễm khuẩn Clostridium difficile (HO-CDI) hàng năm tại hơn 500 bệnh viện điều trị cấp tính tại Mỹ là 7,3/10.000 bệnh nhân-ngày. Việc gia tăng sử dụng thuốc kháng sinh có liên quan đến tỷ suất nhiễm Clostridium difficile cao; cứ mỗi 50 ngày điều trị/1,000 bệnh nhân-ngày sử dụng kháng sinh tăng lên, tỷ suất nhiễm vi khuẩn Clostridium difficile tại các bệnh viện tăng 4,4%, theo một nghiên cứu cắt ngang. Trong một nghiên cứu độc lập khác, những nhà nghiên cứu đã đánh giá tỷ suất nhiễm vi khuẩn clostridum difficile trong số 6.374 bệnh nhân, tuổi từ 18 trở lên, đã nhập viện tại một trong tám bệnh viện trường đại học tại Brazil. Trong thời gian nghiên cứu chỉ có 2 ngày, tỷ lệ nhiễm đường ruột Clostridium difficile là 3,0 /1,000 bệnh nhân-ngày, và tình trạng tiếp xúc với fluoroquinolone có liên quan với nguy cơ nhiễm khuẩn với RR là 3,13 so với những bệnh nhân không sử dụng fluoroquinolones.
Nguồn: https://academic.oup.com/cid/advance-article/doi/10.1093/cid/ciz169/5367464?searchresult=1
Từ 7/2013 đến 8/2014, tỷ lệ nhập viện do trực khuẩn Gram âm sinh men β-lactamas phổ rộng – sản sinh vi khuẩn đường ruột Entrobacteriacease (ESBL-E) trên 569 trẻ sơ sinh nhập viện tại các đơn vị trực thuộc hoặc khoa nhi tổng quát của Bệnh viện Quận Kilifi là 10%. Sinh mổ, tuổi sơ sinh cao, diện tích nhà ở nhỏ là các yếu tố nguy cơ tăng tỷ lệ nhiễm vi khuẩn ESBL-E ở trẻ khi nhập viện. Mỗi ngày có thêm 55% số trẻ sơ sinh đã bị nhiễm loại vi khuẩn này và tỷ suất nhiễm là 21,4% trong 1 ngày. Phần lớn mẫu ESBL-E phân lập được đều kháng nhiều loại thuốc, và phổ biến nhan61t là kháng chloramphenicol, trimethoprim-sulfamethoxazole, quinolones, và gentamicin.
Nguồn: https://academic.oup.com/cid/advance-article/doi/10.1093/cid/ciy976/5369438?searchresult=1