Thông tin

Chủ nhật, 28 Tháng 4 2019 15:56

Trong một nghiên cứu gần đây được các nhà khoa học đại học Bắc Kinh thực hiện, phân tích các mẫu không khí từ Bắc Kinh và Thạch Gia Trang trong thời gian có các hạt lơ lửng thấp (như PM2.5) đã phát hiện gien kháng kháng sinh (ARGs) qua sự đa dạng của vi khuẩn. Đặc biệt liên quan tới việc phát hiện gien NDM-1 và vanB, một gien mã hóa kháng thuốc với phổ rộng các Beta lactams, enzyme gây ra 30% trường hợp kháng thuốc trong không khí ô nhiễm nặng. Cả gien NDM-1 và vanB, gien gây kháng vancomycin (kháng sinh thế hệ sau cùng), được truyền qua chủng Bacillus halotolerans. Mặc dù chủng này không gây bệnh cho người, nhưng có thể lây qua vi khuẩn khác và từ đó có thể lây sang người.

Nguồn: https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/30953816

Thứ năm, 18 Tháng 4 2019 11:17

Các nhà nghiên cứu phỏng vấn 961 người trưởng thành tại North Kivu, Cộng Hòa Congo từ 1-16/09/2018 để điều tra các tác động của sự không tin tưởng và truyền thông sai về các hành vi dự phòng Ebola ở các cá nhân. Chỉ 40,5% người trả lời tin tưởng vào chính phủ trong việc đáp ứng với dịch Ebola và 25,5% người trả lời không tin vào dịch Ebola đang xảy ra. Thiếu sự tin tưởng vào lãnh đạo và chính quyền cũng như có những thông tin sai lệch về Ebola liên quan tới hành vi ít chấp nhận vắc xin, tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe thấp và ít có khả năng tránh được bệnh.

Nguồn: https://www.thelancet.com/journals/laninf/article/PIIS1473-3099(19)30063-5/fulltext

Thứ năm, 18 Tháng 4 2019 11:13

Quinidine, thuốc hàng một để điều trị sốt rét tại Hoa Kỳ đã bị nhà sản xuất ngưng lưu hành. Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) đã xem lại quy trình điều trị sốt rét nặng để đưa artesunate, thuốc hàng một được WHO đề xuất trong điều trị sốt rét nặng. Artesunate chưa được Cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) công nhận cũng như được bán tại Hoa Kỳ, tuy nhiên, IV artesunate có thể mua được thông qua quy trình thuốc nghiên cứu của FDA và theo chỉ định của CDC cho các bệnh nhân.

Nguồn: https://www.cdc.gov/media/releases/2019/s0328-artesunate-first-line-treatment.html

Thứ năm, 18 Tháng 4 2019 11:07

Các nhà nghiên cứu phân lập được các dòng Escherichia coli đa kháng thuốc từ 2.147 mẫu thực phẩm tại Trung Quốc giữa 2015-2017. Tất cả các trường hợp phân lập được kiểm tra tính cảm nhiễm kháng sinh bằng kỹ thuật pha loãng thạch Agar và pha loãng dung môi (broth) và tìm gien blaNDM­ và mcr-1. Tỷ suất kháng E. coli với colistin và meropenem được tính toán. Trong các mẫu được thử nghiệm, 1.166 mẫu kháng cephalosporin, và được chứng minh kháng với hầu hết các kháng sinh thử nghiệm. Tỷ suất kháng E. coli với colistin và meropenem tăng 20% và 16,97% trong giai đoạn 2015-2017. Các plasmid mang blaNDM­ và mcr-1 được phát hiện trong các dòng lâm sàng, gợi ý có sự lây nhiễm từ động vật sang sản xuất thực phẩm.

Nguồn: https://www.eurosurveillance.org/content/10.2807/1560-7917.ES.2019.24.13.1800113#abstract_content

 

Thứ năm, 18 Tháng 4 2019 10:56

Theo thỏa thuận mua bán chung của EU để mua sắm các trang thiết bị y khoa, Ủy ban châu Âu và 15 thành viên cùng với công ty dược Seqirus đã ký khung thỏa thuận tăng sản xuất và cung cấp vắc xin cúm để đối phó với đại dịch. Khung làm việc sẽ đảm bảo khả năng vắc xin và thuốc cho mọi công dân của các nước thành viên trong các vụ dịch tương lai.

Nguồn: https://ec.europa.eu/health/preparedness_response/joint_procurement_en

Thứ năm, 18 Tháng 4 2019 10:44

Dữ liệu giám sát được thu thập từ hai đợt dịch Sởi tại Mông Cổ (3-9/2015 và 10/2015-6/2016) được dùng để tiến hành nghiên cứu bệnh chứng để xác định các yếu tố nguy cơ liên quan tới tử vong sởi ở trẻ. Tử vong do sởi được so sánh với các trường hợp sởi không tử vong ở những trẻ em bị nhập viện. Nhập viện do viêm phổi hoặc cúm liên quan với tử vong (OR hiệu chỉnh = 4,5). Tỷ suất mắc chết do sởi tăng từ 0,13% lên 2,31% trong đợt dịch đầu tiên có thể do tăng nhiễm khuẩn hô hấp ở trẻ.

Nguồn: https://academic.oup.com/jid/advance-article/doi/10.1093/infdis/jiz140/5421809

Thứ năm, 18 Tháng 4 2019 10:32

Các nhà nghiên cứu đánh giá ba nghiên cứu tiến cứu để xem khuynh hướng thời gian của HIV và các hành vi nguy cơ của HIV ở người tiêm ma túy tại Bangkok, Thái Lan từ 1995-2012. Tỷ suất mới mắc HIV giảm ở nhóm dân số giữa các nghiên cứu đầu tiên và cuối cùng từ 5,7 xuống 0,7/1.000 người – năm. Kết quả cho thấy số mới mắc HIV ở người tiêm ma túy đạt đỉnh năm 1996 và giảm từ 2005-2012, được xem là do giảm tỷ lệ tiêm chích và kiêm tiêm dùng chung cũng như tăng khả năng tiếp cận các chương trình can thiệp điều trị và dự phòng.

Nguồn: https://www.thelancet.com/journals/eclinm/article/PIIS2589-5370(19)30052-5/fulltext

Trang