Các nhà nghiên cứu Vương Quốc Anh cho rằng 64% các chế phẩm kết hợp cố định trên thị trường Ấn Độ là chưa được các cơ quan quản lý thông qua, dựa trên luật các kháng sinh không được phép bán. Ít hơn 4% các kháng sinh kết hợp được bán tại Ấn Độ đã được chấp thuận tại Anh hoặc Hoa Kỳ. Ramanan Laxminarayan, Giám đốc CDDEP, cho rằng việc bán các kháng sinh kết hợp mà chưa có chứng cứ lâm sàng sẽ không được chấp thuận tại Hoa Kỳ và câu hỏi đặt ra là tại sao các công ty đa quốc gia lại làm điều này tại Ấn Độ và các nước thu nhập trung bình và thấp”.
Thông tin
Một nghiên cứu được Viện sức khỏe quốc gia Hoa Kỳ (NIH) phát hiện nơi lưu trữ các vi khuẩn kháng thuốc và chuyển plasmid trong các ống nước thải bên trong bệnh viên và các mẫu nước thải trong hệ thống cống rãnh bên ngoài khu phức hợp NIH. Ít hơn 2% các bề mặt tiếp xúc cao như tay cửa và tay vịn giường trong tầm với của các bệnh nhân NIHCC, được phát hiện dương tính với các tác nhân kháng carbapenem. Một chủ đề tương tự, các nghiên cứu nghiên cứu Vương Quốc Anh phát hiện sử dụng nắp đậy toilet và nắp bồn rửa thích hợp có thể dự phòng được sự lây nhiễm Klebsiella pneumoniae kháng carbapenem.
Một nghiên cứu tại Ghana về các bệnh nặng, trẻ sốt nhập viện do sốt rét có mật độ ký sinh trùng sốt rét cao trong máu, ít khi bị nhiễm thêm các tác nhân gây bệnh khác. Các nhà nghiên cứu thu thập mẫu máu và nước tiểu từ 1238 trẻ và các mẫu dịch tử mũi, phân hoặc dịch não tủy của những đứa trẻ trong nghiên cứu có triệu chứng hô hấp, tiêu chảy hoặc viêm màng não. Các tác giả kết luật các xét nghiệm định lượng chính xác với mật độ ký sinh trùng (hơn là các xét nghiệm chẩn đoán nhanh sốt rét trong máu) và các xét nghiệm đồng nhiễm phù hợp khác rất cần thiết để đảm bảo việc lựa chọn kháng sinh hợp lý.
Nguồn: https://academic.oup.com/cid/advance-article/doi/10.1093/cid/cix1120/4835722
Tỷ số quản lý kháng sinh chuẩn hóa (SAAR) được tính dựa trên sử dụng kháng sinh tiên đoán và số sử dụng thật tế (AU) trong khi số tiên đoán được ướng tính từ mô hình thống kê. Bằng cách cho phép các bệnh viện so sánh số kháng sinh sử dụng theo thời gian tại bệnh viện với số liệu quốc gia, SAAR được các bệnh viện Hoa Kỳ đưa ra để cải tiến sự quản lý kháng sinh. Năm dữ kiện của SAAR được thu thập gồm tác nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện/kháng thuốc phổ rộng; các tác nhân nhiễm khuẩn cộng đồng phổ rộng; các tác nhân kháng MRSA; các tác nhân được dùng để dự phòng nhiễm khuẩn phẫu thuật; và tất cả các kháng sinh.
Nhiễm khuẩn Pseudomonas aeruginosa mãn tính ở người bị sơ gan thường sẽ sinh đề kháng với kháng sinh điều trị theo thời gian. Các nhà nghiên cứu phát hiện sự đột biến gây kháng một loại kháng sinh có thể nhạy cảm với một loại kháng sinh khác. Kiến thức chuyên môn về đột biến hiện nay ở bệnh nhân có thể tối ưu hóa điều trị và thậm chí loại bỏ các chủng đề kháng ở bệnh nhân và mở ra hướng điều trị cá nhân hóa hơn. Biên tập viên tạp chí khoa học, Caroline Ash tóm tắt kết quả nghiên cứu.
Một nghiên cứu trong 15 năm trên 750.000 thai phụ tại Đan Mạch, số liệu cho thấy nguy cơ cao hơn nếu tiếp xúc với kháng sinh gần lúc sinh hơn và thậm chí cao hơn nữa nếu đứa trẻ được sinh qua ngả âm đạo.
Một báo cáo của hệ thống giám sát kháng thuốc toàn cầu (GLASS) phát hiện sự lây lan và mức độ kháng thuốc cao của các vi khuẩn nguy hiểm ở cả các nước thu nhập thấp và cao. Tổ chức sức khỏe thế giới (WHO) đã khởi xướng GLASS và đã giới thiệu nó tại 52 quốc gia (25 nước có thu nhập cao, 20 nước có thu nhập trung bình và 7 nước có thu nhập thấp). Theo báo cáo này, hầu hết các vi khuẩn kháng thuốc phổ biến được báo cáo là Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae, Staphylococcus aureus, Streptococcus pneumoniae và Salmonella species với cảnh báo mức độ kháng thuốc cao tại vài quốc gia. Hợp tác GLASS nhắm tới chuẩn hóa giám sát kháng kháng sinh toàn cầu.