Các hiệu thuốc tại Ấn độ có thể quản lý tốt hơn việc bán thuốc kháng sinh cho các trường hợp nghi ngờ bị lao, phổ biến hơn rất nhiều so với giả định trước đây. Theo một nghiên cứu đăng trên tạp chí The Lancet Infectious Diseases, chỉ một vài hiệu thuốc tại ba thành phố của Ấn độ quản lý bệnh nhân nghi ngờ lao đúng cách, cho thấy rằng thiếu chẩn đoán xác định dẫn tới sử dụng kháng sinh sai. Khoảng 13% dược sĩ, dựa vào bác sĩ trong các trường hợp “bệnh nhân chuẩn” nghi nhiễm lao không xác định, không cần kê đơn kháng sinh – thực hành quản lý đúng. Kháng sinh được phát trong 37% các trường hợp và steroids trong 8% các trường hợp. Quản lý thuốc ở những bệnh nhân có chẩn đoán xác định lao được thực hiện tốt hơn: 62% dựa vào bác sĩ và 16% phát kháng sinh. Kết quả nghiên cứu cho thấy cần các nghiên cứu mới về bệnh lao tại Ấn Độ, kết hợp số liệu từ các cơ sở chăm sóc sức khỏe tư nhân, kinh doanh thuốc thương mại. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng vào năm 2014, có 17.793 triệu bệnh nhân-tháng được điều trị lao trong khu vực y tế tư nhân vào khoảng 2.2 triệu lượt. Khi kết hợp với các trường hợp Lao được các cơ sở chăm sóc sức khỏe công báo cáo, số ca lao tăng gấp 2-3 lần so với ước đoán trước đây.
Điểm báo
TS Abhilasha Karkey, thành viên nhóm làm việc Nepal-GARP, viết trên blog CDDEP về tác dụng không mong muốn khi sử dụng chỉ số kháng thuốc (DRI – Drug Resistance Index) tại bệnh viên Patan: mọi người từ quản lý bệnh viện cho tới dược sĩ và Bác sĩ lâm sàng rất nhạy cảm với các vấn đề kháng thuốc và đang từng bước cải thiện việc sử dụng kháng sinh, thâm chí trước khi chỉ số DRI được sử dụng để thay đổi thực hành chăm sóc. DRI, chỉ số tổng hợp kết hợp hiệu quả của kháng sinh trong điều trị nhiểm khuẩn cụ thể với mức độ sử dụng của họ trong thực hành lâm sàng, được các nhà nghiên cứu CDDEP phát triển để theo dõi khả năng điều trị nhiễm khuẩn tại một bệnh viện độc lập hoặc trên toàn quốc.
Kháng sinh không được kê toa hợp lý trong điều trị viêm phế quản với hơn 80% các trường hợp, theo báo cáo của CDC. Nghiên cứu, được đăng trên tạp chí American Journal of Managed Care, đánh giá các số liệu từ các gói chăm sóc sức khỏe thương mại từ 2008 đến 2012 theo ba chỉ số từ trung tâm HEDIS (Healthcare Effectiveness Data and Information Set): (1) kiểm tra hợp lý những trẻ bị viêm họng, (2) điều trị phù hợp những trẻ em bị nhiễm khuẩn hô hấp trên, (3) không sử dụng kháng sinh điều trị người lớn bị viêm phế quản cấp. Các gói chăm sóc sức khỏe cho thấy các chỉ số tốt khi điều trị cho trẻ em nhưng rất kém khi điều trị cho người lớn viêm phế quản. Nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt về địa lý, với gói sức khỏe được thực hiện kém hơn ở khu vực Nam Trung Bộ so với các khu vực khác của đất nước. TS Lauri Hicks, Giám đốc trung tâm Kháng sinh Stewardship tại CDC, cho rằng “Mặc dù sự cải thiện mạnh mẽ là cần thiết tại miền Nam, số liệu cho thấy có nhiều cơ hội để cải thiện việc kê toa kháng sinh trên khắp Hoa Kỳ.
Ramanan Laxminarayan, giám đốc CDDEP đưa ra các mục tiêu khó khăn, ngân sách và điều hành chống lại kháng kháng sinh, trước cuộc hợp cấp cao của Đại hội đồng liên hợp quốc về kháng kháng sinh diễn ra vào 21 tháng 09 năm 2016. Trong khoa học, Laxminarayan và cac` đồng tác giả giải thích rằng không có mục tiêu đặc hiệu, ngân sách phù hợp và cơ cấu quản lý một sức khỏe hiệu quả, giải pháp được mong đợi từ đại hội đồng liên hợp quốc sẽ có ít tác động. Một mục tiêu giảm mức độ tiêu thụ kháng sinh của các quốc gia xuống bằng với mức trung vị của toàn cầu (8.5 DDD/một năm) ở tất cả các quốc giả, sẽ giảm 18% việc sử dụng kháng sinh toàn cầu.
Chi phí, lợi ích và rào cản đối với việc giám sát kháng kháng sinh tại những quốc gia thu nhập trung bình và thấp được báo cáo trong một nghiên cứu trường hợp của Ngân hàng thế giới do CDDEP dẫn đầu. Giám sát kháng kháng sinh rất quan trọng để hiểu được mô hình và khuynh hướng của nó, nhưng những quốc thu nhập thấp ít khi thực hiện việc giám sát. Hellen Gelband, Phó Giám đốc Chính sách của CDDEP, cùng các cộng sự Kenya và Nigeria, đánh giá kinh nghiệm của “Dự án mạng lưới phòng xét nghiệm y tế công cộng vùng Nam Phi (EAPHL)” qua nghiên cứu trường hợp của ngân hàng thế giới trong việc đẩy mạnh vai trò của các phòng xét nghiệm, trong việc theo dõi kháng kháng sinh tại Đông Phi, được công bố trong tuần này. Bất chấp những hỗ trợ của ngân hàng thế giới và cở sở vật chất đã được nâng cấp, vi khuẩn học vẫn bị xem nhẹ hơn so với các chức năng khác của các phòng xét nghiệm EAPHL, các thử nghiệm độ nhạy, nền tảng của công tác giám sát kháng kháng sinh, rất ít khi được thực hiện. Nghiên cứu xác định được các rào cản và đưa ra các đề xuất có thể được áp dụng rộng rãi cho các quốc gia thu nhập trung bình, thấp trên thế giới. Nghiên cứu cũng xem lại các chương trình giám sát kháng kháng sinh trên thế giới, cơ cấu tổ chức, chi phí và lợi ích.
Nhiễm khuẩn shigella đa kháng thuốc đang gia tăng ở những người đồng tính nam trong các vụ dịch gần đây theo một báo cáo khoa học đăng trên tạp chí Emerging Infectious Diseases. Trong số 32 vụ dịch xảy ra từ 2011-2015, 9 vụ kháng với ciprofloxacin, ceftriaxone, hay azithromycin, hoặc kháng hơn một loại kháng sinh. Trong khi nhiễm shigella khá phổ biến ở trẻ nhỏ, hầu hết các trường hợp kháng thuốc xảy ra ở nam đồng tính (MSM). Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ ghi nhận 103 trường hợp nhiễm tại Oregon từ 07/2015 tới 06/2016, 75% các trường hợp là nam, 50% được xác định là MSM. Tất cả 48 mẫu cấy đều kháng ampicillin và trimethoprim-sulfamethoxazone (co-trimoxazole) và 13 trường hợp kháng azithromycin.
https://www.cdc.gov/mmwr/volumes/65/wr/mm6531a5.htm?s_cid=mm6531a5_w
CRP (C-reactive protein) xét nghiệm tại các trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu có thể giảm sử dụng kháng sinh không hợp lý, theo báo cáo của một nghiên cứu đăng trên tạp chí Lancet Global Health được Hiệp hội kháng kháng sinh quốc tế tài trợ. Nghiên cứu này được Do T T Nga thực hiện tại Việt Nam và là nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này tại nơi có nguồn lực hạn chế. Khoảng 2.000 người trưởng thành và trẻ em bị nhiễm trùng đường hô hấp từ 10 trung tâm chăm sóc sức khỏe ban đầu ở miền Bắc Việt Nam được chọn ngẫu nhiên để đưa vào nhóm được xét nghiệm CRP hoặc nhóm được chăm sóc thường quy. Xét nghiệm CRP phân biệt được trường hợp nhiễm khuẩn đường hô hấp nặng và trường hợp cấp tính khu trú, cung cấp thông tin giúp việc kê toa. Xét nghiệm CRP giảm kê toa kháng sinh đáng kể. Bốn mươi sáu phần trâm (46%) bệnh nhân trong nhóm được xét nghiệm CRP và 78% trong nhóm chăm sóc thường quy sử dụng kháng sinh trong khi thời gian hồi phục lâm sàng là bằng nhau. Kết quả nghiên cứu này tương tự như các thực nghiệm được tiến hành tại Châu Âu.
http://www.thelancet.com/journals/langlo/article/PIIS2214-109X(16)30142-5/fulltext