Một báo cáo vừa công bố trên Journal of Medical Entomology cho thấy >70% các quận của Hoa Kỳ có khí hậu phù hợp để muỗi Aedes aegypti và albopictus sinh trưởng. Bản đồ tiên đoán khả năng gây dịch cao như Zika, Dengue, Chikungunya và sốt vàng ở các khu vực phía tây và phía đông của Hoa Kỳ.
Thông tin
Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC) báo cáo 2 triệu ca mắc mới các bệnh lây truyền qua đường tình dục (STDs) bao gồm Chlamydia, giang mai, lậu trên toàn quốc trong năm 2016. Điều này đặc biệt quan trọng vì càng có nhiều ca lậu kháng thuốc được báo cáo trên thế giới. Báo cáo cho thấy nam quan hệ tình dục với nam (MSM) là nhóm dễ bị lây nhiễm nhất và sự gia tăng số trẻ em bị lậu bẩm sinh, nhấn mạnh nhu cầu cấp thiết phải có các biện pháp dự phòng.
Mcr-1, gene có trong vi khuẩn kháng tất cả các loại kháng sinh, đã bị một nhóm các nhà khoa học tìm ra cách đánh bại. Họ làm được điều này bằng cách kết hợp 3 loại kháng sinh với nhau: aztreonam, amikacin và polymyxin B.
“Kỷ nguyên vàng của kháng sinh vẫn chưa kết thúc”, một trong số các nhà nghiên cứu tuyên bố.
Trước đó, vi khuẩn E. coli chứa mcr-1 vẫn được các quan chức y tế Mỹ gọi là “cơn ác mộng”. Nó gây ra mối đe dọa khẩn cấp trên toàn cầu và đã xuất hiện ở 30 quốc gia. Bên cạnh mcr-1, loại kháng sinh tổng hợp của các nhà khoa học Mỹ cũng có khả năng chống lại ndm-5, một gene đem đến khả năng kháng thuốc mạnh khác cho vi khuẩn.
Ba loại kháng sinh đánh bại gene kháng thuốc nguy hiểm nhất của siêu vi khuẩn.
Kỷ nguyên vàng kháng sinh vẫn chưa kết thúc?
Cách đây 18 tháng, lần đầu tiên gene mcr-1 kháng tất cả kháng sinh được phát hiện tại Trung Quốc. Kể từ đó tới nay, mcr-1 đã được ghi nhận thêm tại hơn 30 quốc gia bao gồm Mỹ, Châu Âu, và cả Việt Nam. Tỷ lệ lây lan được đánh giá là đáng báo động.
Riêng tại Mỹ, đã có ít nhất gần hai chục trường hợp E. coli mang mcr-1 đã được báo cáo. Ngày càng có nhiều trường hợp gene mcr-1 được phát hiện trên vi khuẩn, mối lo ngại của chúng ta về các ca nhiễm trùng không thể chữa khỏi sẽ càng lớn.
Phó giáo sư Brian Tsuji đến từ Trường Dược và Khoa học dược phẩm cho biết:"Những chủng vi khuẩn mang gene mcr-1 và ndm-5 đại diện cho một mối đe dọa cấp bách, bởi mức độ đề kháng với kháng sinh của chúng rất cao cộng với khả năng lây lan nhanh chóng".
“Các vi khuẩn Gram âm, bao gồm E. coli mang gene mcr-1 sẽ tạo ra mối đe dọa lớn. Chúng tôi tin rằng sự xuất hiện của gene mcr-1 và ndm-5 ở bệnh nhân có thể là dấu hiệu báo hiệu cho những gì sẽ xảy ra”, phó giáo sư Zackery Bulman đến từ Đại học Illinois cảnh báo.
Điều mà Bulman ám chỉ ở đây là kỷ nguyên hậu kháng sinh, khi tất cả các loại thuốc của con người đều thất bại trước vi khuẩn. Tuy nhiên, ông lại cho rằng: “Kỷ nguyên vàng của kháng sinh vẫn chưa kết thúc”. Ông và các đồng nghiệp đang “giúp các bác sĩ chuẩn bị phương pháp điều trị cho sự xuất hiện của những chủng vi khuẩn mới".
"Chúng tôi đã phải làm việc nhanh chóng và sáng tạo”, ông nói. "Đây là nghiên cứu đầu tiên đưa ra giải pháp trị liệu với ba loại thuốc kháng sinh chống lại được siêu vi chứa gene mcr-1 và ndm-5".
Kết hợp 3 loại kháng sinh là cách duy nhất
Mrc-2 đang gây ra mối đe dọa khẩn cấp trên toàn cầu và đã xuất hiện ở 30 quốc gia.
Sự nổi lên của các trường hợp vi khuẩn kháng tất cả kháng sinh đã khiến chúng ta phải tìm đến những lựa chọn cuối cùng. Một trong số đó là hợp chất polymyxins B, loại kháng sinh có hiệu quả nhưng đặc biệt có hại với thận.
Để tránh những tác dụng phụ của loại thuốc này, các nhà khoa học đã cố gắng tìm ra chiến lược giảm liều lượng mà vẫn giữ được hiệu quả của nó. Họ làm điều này bằng cách kết hợp polymyxins B với các loại kháng sinh khác.
Sau khi chọn ra 15 loại kháng sinh thường và thử hàng loạt cách kết hợp chúng với polymyxin B, các nhà nghiên cứu phát hiện ra hai hướng điều trị hiệu quả. Theo đó, khi polymyxin B được dùng phối hợp với kháng sinh aztreonam hoặc amikacin, toàn bộ vi khuẩn chứa gene kháng kháng sinh đã bị tiêu diệt sau 24 giờ.
Kết quả cũng khẳng định chỉ có sự kết hợp của bộ ba kháng sinh: aztreonam, amikacin và polymyxin B mới tiêu diệt được chủng E. coli chứa mrc-1 và ngăn ngừa chúng tái phát triển trở lại.
"Chúng tôi biết rằng polymyxins một mình không thể làm được việc đó. Chỉ có ba loại thuốc kết hợp với nhau mới có thể đồng thời tiêu diệt vi khuẩn và ngăn chặn chúng phát triển", phó giáo sư Bulman nói.
Trong bối cảnh kháng kháng sinh đang phát triển mạnh trên toàn cầu, nghiên cứu của ông cùng đồng nghiệp đã tạo ra một điểm sáng đáng chú ý. Phát hiện đầy hứa hẹn có thể cung cấp một phương pháp chữa trị hữu hiệu, đối với các trường hợp nhiễm trùng gây ra bởi vi khuẩn chứa gen mcr-1 và ndm-5 trong tương lai.
Nguồn: http://khoahoc.tv/3-loai-khang-sinh-danh-bai-gene-khang-thuoc-nguy-hiem-nhat-cua-sieu-vi-khuan-84225
Báo cáo của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy có quá ít kháng sinh mới được điều chế trong khi số bệnh kháng thuốc tiếp tục gia tăng.
Tốc độ phát triển các bệnh kháng thuốc có khả năng sẽ vượt qua quá trình điều chế thuốc kháng sinh và đe dọa trực tiếp đến sức khỏe loài người. Theo CNN, ngày 19/9, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đưa ra báo cáo cho thấy quá ít kháng sinh mới được điều chế trong khi số vi khuẩn nguy hiểm không ngừng gia tăng.
Tốc độ phát triển các bệnh kháng thuốc có khả năng sẽ vượt qua quá trình điều chế thuốc kháng sinh. (Ảnh: healthline).
Tính đến tháng 5, giới khoa học đang nghiên cứu 51 kháng sinh cùng 11 chất sinh học làm từ các nguồn thiên nhiên có thể thay thế kháng sinh. Tuy nhiên, chỉ 33 kháng sinh nhắm đến 12 mầm bệnh ưu tiên mà WHO công bố hồi tháng 2 gồm vi khuẩn lao khiến 250.000 người tử vong mỗi năm và Enterobacteriaceae gây các bệnh nhiễm trùng ở bệnh viện, nhà dưỡng lão.
Trong 33 loại thuốc tiềm năng, tám loại là thuốc điều trị mới, tiên tiến hơn, còn 25 loại thực chất được sửa đổi đơn giản từ những nhóm kháng sinh hiện hành. Trường hợp tốt nhất, 25 kháng sinh đó sẽ dùng làm biện pháp ngắn hạn để chiến đấu với vi khuẩn.
Các báo cáo mới nhất cho thấy bệnh lao cần ít nhất ba kháng sinh. Thế nhưng, không quá bảy loại đang bước vào thử nghiệm. Trước tình hình này, nhiều chuyên gia dự đoán chẳng bao lâu nữa, bệnh nhân lao sẽ thiếu hụt trầm trọng thuốc.
Tương tự, vi khuẩn gram âm cũng trở nên khó chữa. Phức tạp hơn nhiều vi khuẩn gram dương, chúng đòi hỏi thuốc kháng sinh đủ mạnh để xâm nhập qua thành tế bào rồi ở lại bên trong.
Bên cạnh số lượng kháng sinh nói chung, WHO nhận định quá ít kháng sinh đường uống được điều chế dù đây là biện pháp hiệu quả và dễ phân phối ở những quốc gia thu nhập thấp hoặc trung bình.
Nguồn: http://khoahoc.tv/the-gioi-can-kiet-khang-sinh-the-he-moi-85740
Việc xuất hiện siêu vi khuẩn kháng tất cả các loại thuốc đã thực sự làm người ta phải nghĩ đến một tương lai đen tối mang tên kháng kháng sinh. Vậy kháng kháng sinh là gì? Tại sao nó lại nguy hiểm đến thế, hãy thử tìm hiểu nhé!
Kháng kháng sinh là hiện tượng xảy ra khi mầm bệnh hay vi khuẩn không bị tiêu diệt bởi thuốc kháng sinh. Chúng không những tồn tại mà còn sinh sản ra những thế hệ vi khuẩn mới, cũng có đặc tính kháng thuốc và hóa chất điều trị nhiễm trùng.
Theo thống kê của "Chương trình Đánh giá Kháng kháng sinh" được tài trợ bởi chính phủ Anh, hàng năm trên thế giới có 700.000 ca tử vong bởi vi khuẩn kháng thuốc. Ước tính con số sẽ tăng lên đến 10 triệu người vào năm 2050.
Vậy những con vi khuẩn đã làm thế nào để chống lại những viên thuốc từng được coi là thần dược của tây y và tạo nên cơn ác mộng cho loài người? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu điều đó.
Vi khuẩn đã kháng thuốc như thế nào?
Thuốc kháng sinh hoạt động như thế nào
Kháng sinh hoạt động để chống lại vi khuẩn gây bệnh. Chúng là những sinh vật đơn bào có kích thước vài phần nghìn milimét, sinh sống và gây viêm nhiễm ở đâu đó trong cơ thể chúng ta. Khi được đưa vào cơ thể, kháng sinh sẽ tiếp cận và tiêu diệt vi khuẩn gây bệnh theo các cơ chế chính:
- Tấn công trực tiếp thành tế bào, khiến chúng mất khả năng tự bảo vệ khỏi môi trường
- Can thiệp vào quá trình tổng hợp protein
- Tàn phá các quá trình trao đổi chất
- Ngăn chặn sự tổng hợp DNA và RNA
Khi một vi khuẩn kháng thuốc, chúng có khả năng vô hiệu hóa một phần hoặc toàn bộ các cơ chế này của kháng sinh theo các cách dưới đây:
Xây dựng hệ thống phòng thủ
Khi không muốn gặp một ai đó, bạn tránh mặt họ, chặn số điện thoại và mọi hình thức liên lạc khác. Vi khuẩn kháng thuốc sử dụng một chiến lược tương tự đối với kháng sinh. Chúng thay đổi tính thẩm thấu của màng tế bào. Bằng cách này ngăn chặn hoàn toàn hoặc hạn chế cho phép kháng sinh xâm nhập được vào trong tế bào để phá hủy tổ chức của chúng.
Một chiến lược khác của vi khuẩn là chúng cho phép kháng sinh vào bên trong. Nhưng sẽ tạo ra một số phân tử giống như vệ sĩ gác cửa. Chúng sẵn sàng tống cổ kháng sinh ra khỏi tế bào ngay khi bước vào. Một số vi khuẩn sử dụng các máy bơm, lấy năng lượng ATP để bắn thuốc kháng sinh ra khỏi cơ thể chúng.
Ngụy trang mục tiêu
Nhiều kháng sinh làm việc bằng cách chọn một mục tiêu cụ thể của vi khuẩn, ví dụ như bộ phận sản xuất protein của chúng. Sau đó, kháng sinh cô lập bộ phận này khiến vi khuẩn không thể sử dụng chúng và chết vì thiếu nguồn cung protein.
Để đối phó với diễn biến này, vi khuẩn thay đổi cấu trúc của các bộ phận mục tiêuđể kháng sinh không còn nhận ra nó. Về cơ bản, dù cho kháng sinh có vào được tế bào, nó cũng không biết làm gì khi các mục tiêu đã được ngụy trang và không nhận ra nổi.
Phản công lại kháng sinh
Đây là chiến thuật kháng kháng sinh cực đoan nhất. Thay vì chỉ sử dụng hệ thống phòng thủ và ngụy trang, vi khuẩn sản xuất một số loại enzyme để chiến đấu trực tiếp với kẻ thù của mình. Chúng làm giảm hoặc bất hoàn toàn tính kháng khuẩn của thuốc. Ví dụ như enzyme beta-lactamse được sản sinh bởi một số vi khuẩn đã đánh bại hoàn toàn penicillin.
Trong hàng triệu vi khuẩn, tồn tại những cá thể có khả năng kháng kháng sinh tự nhiên.
Tất cả những chiến thuật trên đều rất tinh tế, nhưng làm thế nào mà vi khuẩn có thể học được điều này
Trên thực tế, đội quân vi khuẩn có số lượng rất lớn và không phải con nào cũng giống con nào. Tuy nhiên, phân tử thuốc kháng sinh thì giống hệt nhau, chúng không đạt đến sự đa dạng như vi khuẩn. Trong hàng triệu vi khuẩn, có xác xuất tồn tại một vài cá thể tự nhiên có khả năng sử dụng một trong số 3 chiến thuật trên để kháng thuốc.
Khi kháng sinh đã tiêu diệt hết toàn bộ những vi khuẩn nhạy thuốc, các cá thể vi khuẩn kháng thuốc tiếp tục tồn tại và sinh sản. Thế hệ sau của chúng sẽ thay thế những vi khuẩn đã chết và chúng hoàn toàn kháng thuốc.
Một kịch bản khác, vi khuẩn có thể học được các chiến thuật trên bằng cách truyền cho nhau những đoạn mã DNA. Trong đó có chứa cách để ngụy trang một cơ quan hay tạo ra enzyme chống lại kháng sinh.
Một vi khuẩn thông thường có thể nhận gen mã hóa này thông qua nhiều cách. Ví dụ, trong quá trình biến nạp, chúng nhận DNA trần từ một vi khuẩn khác. Hoặc khi một vi khuẩn kháng thuốc chết và nổ tung, chúng giải phóng các mảnh DNA vào môi trường. Các vi khuẩn khác sẽ "nhặt" chúng lại và tái tạo thành các gen kháng thuốc.
Quá trình vi khuẩn kháng kháng sinh tồn tại và phát triển thành quần thể.
Không may rằng dù cho vi khuẩn có học được cách kháng thuốc theo bất kì hình thức nào, chúng cũng sẽ truyền lại khả năng này cho thế hệ tiếp theo. Đó là hệ quả cơ bản của ý tưởng chọn lọc tự nhiên trong thuyết tiến hóa của Darwin được gọi là "sự sống sót của kẻ thích nghi tốt nhất".
Kết quả cuối cùng là chúng ta phải chiến đấu với một quần thể vi khuẩn kháng thuốc, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các công ty dược phẩm e dè trong việc phát triển kháng sinh mới, bởi cứ sau một vài năm vi khuẩn kháng thuốc bắt đầu xuất hiện.
Tuy nhiên, không phải vậy mà con người sẽ thua trong cuộc chiến này. Hiện tại, chúng ta đang có khoảng 100 loại thuốc kháng sinh khác nhau. Hiểu rõ cơ chế kháng thuốc của vi khuẩn, các nhà khoa học một mặt vẫn sẽ tiếp tục điều chế thêm các loại kháng sinh mới. Mặt khác, họ cũng đang đi tìm những phương pháp tiêu diệt vi khuẩn "nhờn thuốc", ví dụ như sử dụng công nghệ nano hứa hẹn đưa nhân loại ra khỏi cơn ác mộng của kháng kháng sinh.
Nguồn: http://khoahoc.tv/vi-khuan-da-hoc-duoc-cach-chong-lai-khang-sinh-nhu-the-nao-70758
Theo PGS.TS Trần Đắc Phu, Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế), số ca mắc Zika ở Việt Nam đã lên xấp xỉ 40 người ở 6 tỉnh thành, nhiều nhất là ở TPHCM với 29 bệnh nhân.

Ngành Y tế TPHCM cảnh báo, dịch có thể sẽ lan rộng. Trong số 36 người mắc Zika, có 5 thai phụ, gồm 1 người ở Bình Dương, 4 người ở TPHCM. Một người có thai trong ba tháng đầu của thai kỳ, là giai đoạn có nguy cơ sinh ra trẻ bị dị tật đầu nhỏ.
Những khu vực miền Nam, miền Trung, Tây Nguyên và một số tỉnh phía Bắc như Hà Nam, Hà Nội... hiện đang có dịch sốt xuất huyết. Đây là những khu vực có thể lan rộng bệnh do virus Zika. Tại Hà Nội, vừa qua Trung tâm Y tế dự phòng Hà Nội lấy trên 200 mẫu bệnh phẩm của người bệnh trong diện nghi ngờ, nhưng tất cả đều âm tính với virus Zika. Trung tâm Y tế Dự phòng Hà Nội phối hợp với Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương tổ chức bắt muỗi xét nghiệm tìm cá thể muỗi nhiễm virus Zika. PGS.TS Trần Đắc Phu cho biết: “Hiện có 6 viện và bệnh viện ở Hà Nội, TPHCM, Nha Trang và Tây Nguyên có thể xét nghiệm xác định người nhiễm Zika ở Việt Nam, thời gian trả kết quả tối đa là 7 ngày. Tất cả các xét nghiệm xác định Zika cho người nghi nhiễm bệnh đều được miễn phí” .
Trả lời câu hỏi: “Người chưa mang thai mà bị nhiễm Zika thì sau này nếu mang thai có ảnh hưởng gì không?”, ông Vũ Ngọc Long (Cục Y tế dự phòng) cho biết: Hiện các nhà khoa học đang nghiên cứu về sự tồn tại của kháng thể trong những trường hợp đã từng bị nhiễm vi rút Zika. Tuy nhiên, chưa có kết quả cuối cùng khẳng định kháng thể này có tính bền vững hay không.
Ngoài ra, các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu sự tồn tại của vi rút Zika trong người bệnh. Những kết quả ban đầu cho thấy, vi rút Zika có thể tồn tại khá lâu trong người kể cả khi đã hết các triệu chứng. Ví dụ, vi rút Zika có thể tồn tại trong tinh dịch đến 9 tháng.
Do đó, khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới đối với những cặp vợ chồng dự định có thai nếu người chồng nghi ngờ bị nhiễm vi rút Zika, hoặc đã mắc bệnh cần sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục với vợ, hoặc kiêng quan hệ tình dục với vợ trong ít nhất 6 tháng.
Nếu phụ nữ từng bị nhiễm Zika, sau bao lâu mới nên có thai? PGS.TS Phan Trọng Lân, Viện trưởng Viện Pasteur TPHCM cho biết: Ít nhất sau 2 tháng, kể từ thời điểm phụ nữ có biểu hiện bệnh hoặc phơi nhiễm Zika, trong cơ thể hết vi rút, thì có thể tính đến việc mang thai, tuy nhiên cần có sự tư vấn của chuyên gia y tế.
Còn ông Vũ Ngọc Long cho biết thêm, hiện nay, các trường hợp nhiễm vi rút Zika ở Việt Nam đều là những trường hợp đơn lẻ, rải rác và không tạo thành những ổ dịch lớn. Các trường hợp này đã được theo dõi, cách ly xử lý kịp thời, đến nay chưa phát hiện những trường hợp lây nhiễm thứ phát từ những trường hợp đầu tiên. Các trường hợp nhiễm virus Zika đến nay sức khỏe đang ổn định, chưa có trường hợp nào có biến chứng.
Theo Võ Thu
http://dantri.com.vn/suc-khoe/phu-nu-tung-bi-nhiem-zika-sau-bao-lau-moi-nen-co-thai-20161110141028903.htm
Một nghiên cứu công bố trên Clinical Infectious Diseases cho thấy Tetracyclines phổ rộng làm giảm nguy cơ nhiễm Clostridium difficile so với các loại kháng sinh khác. Các nhà nghiên cứu phân tích các nghiên cứu dựa trên 6 bệnh viện trong giai đoạn 1993 - 2012 cho thấy sử dụng tetracyclines liên quan tới tỷ suất nhiễm CDI thấp hơn nên được đề nghị là kháng sinh điều trị bậc 1.