Trung Quốc và Anh đã ký bảng ghi nhớ cam kết hợp tác nghiên cứu kháng kháng sinh. Trong năm 2016, Trung Quốc và Anh đã tiến hành đối thoại cấp cao, hai quốc gia đưa ra nhiều thoải thuận bao gồm bản ghi nhớ về hợp tác nghiên cứu kháng kháng sinh và đổi mới. Theo bản cam kết, Chính phủ Trung Quốc sẽ được Chính phủ Anh hỗ trợ ngân sách cho nghiên cứu song phương về kháng kháng sinh.
Thông tin
Bệnh nhân viêm màng não do lạo đa kháng thuốc có nguy cơ tử vong cao hơn, theo một nghiên cứu đăng trên tạp chí bệnh truyền nhiễm lâm sáng (Clinical Infectious Diseases). Nghiên cứu này thực hiện trên 342 bệnh nhân được quản lý tại trung tâm lao New York từ 1992 tới 2001. Hơn 50% - 183 bệnh nhân chết trước khi hoàn tất điều trị với thời gian sống trung vị ít hơn 1 tháng. Các tác giả cho rằng “kết quả này ủng hộ việc đánh giá liên tục các kỹ thuật chẩn đoán nhanh và bổ sung các thuốc thế hệ hai cho những bệnh nhân nghi ngờ nhiễm lao đa kháng thuốc trên lâm sàng”. Hướng dẫn mới được đăng trên tạp chí truyền nhiễm lâm sáng, được ủng hộ bởi những tiến bộ trong chẩn đoán, xác định được nhóm bệnh nhân nguy cơ cao và thấp, các khuyến nghị trong chẩn đoán và hệ thống phân loại bệnh lao mới.
Nghiên cứu về lao đa kháng thuốc tại Thượng Hải tập trung vào những bệnh nhân được chẩn đoán từ 2009 tới 2012. Trong số 324 bệnh nhân lao đa kháng thuốc để phân tích gien, 103 chủng đa kháng thuốc được xác định (68 chủng đột biến kháng rifampicin), thuộc về 38 cụm gien. Phân tích mạng truyền dẫn của 38 cụm gien cho thấy 22 (87%) trong số 38 cụm tích lũy thêm các đột biến kháng thuốc trong quá trình di truyền.
Tại châu Mỹ La tinh, số liệu giám sát sử dụng và kháng kháng sinh còn nhiều thiếu sót. Hai chuyên gia về kháng kháng sinh viết trên blog Longitude Prize đã so sánh phạm vi rộng lớn của vấn đề - vi khuẩn đa kháng thuốc gây ra hơn 50% các trường hợp nhiễm khuẩn bệnh viện tại Brazil, Bolivia và Peru cùng với sự thiếu nghiêm trọng các số liệu giám sát về kháng thuốc và sử dụng kháng sinh. Tháng 10/2015, Hội đồng tổ chức sức khỏe thế giới khu vực châu Mỹ đã đưa ra kế hoạch hành động chống lại kháng kháng sinh tại Mỹ La Tinh. Các tác giả kêu gọi chính phủ ủng hộ các sáng kiến về giám sát và xác định các vi sinh vật đa kháng thuốc.
Nghiên cứu quy mô lớn đầu tiên tái nhập viện khoa cấp cứu vì nhiễm khuẩn mô mềm và da. Một nghiên cứu từ của các nghiên cứu viên CDDEP và cộng sự, được công bố trên tạp chí Dịch tễ học và truyền nhiễm (Epidemiology & Infection), đánh giá các yếu tố liên quan tái nhập viện khoa cấp cứu vì nhiễm khuẩn da và mô mềm, sử dụng số liệu xuất viện của khoa cấp cứu bệnh viện California từ 2005-2011. Hơn 16% trong số 200.000 bệnh án bị nhiễm khuẩn da và mô mềm (SSTI) khi tái nhập viện trong vòng 6 tháng kể từ lần nhập viện đầu tiên. Lạm dụng rượu hoặc thuốc và bệnh gan (OR=1,4) và béo phì (OR=1,3) có liên quan tới SSTI ở lần nhập viện sau. Bệnh nhân nhiễm khuẩn có thủ thuật và dẫn lưu hoặc thông khí có nguy cơ tái nhập viện khoa cấp cứu cao hơn (OR: 1,1).
Nguồn: http://www.cddep.org/blog/posts/weekly_digest_us_century_cures_act_ch
Nghiên cứu quy mô lớn đầu tiên tái nhập viện khoa cấp cứu vì nhiễm khuẩn mô mềm và da. Một nghiên cứu từ của các nghiên cứu viên CDDEP và cộng sự, được công bố trên tạp chí Dịch tễ học và truyền nhiễm (Epidemiology & Infection), đánh giá các yếu tố liên quan tái nhập viện khoa cấp cứu vì nhiễm khuẩn da và mô mềm, sử dụng số liệu xuất viện của khoa cấp cứu bệnh viện California từ 2005-2011. Hơn 16% trong số 200.000 bệnh án bị nhiễm khuẩn da và mô mềm (SSTI) khi tái nhập viện trong vòng 6 tháng kể từ lần nhập viện đầu tiên. Lạm dụng rượu hoặc thuốc và bệnh gan (OR=1,4) và béo phì (OR=1,3) có liên quan tới SSTI ở lần nhập viện sau. Bệnh nhân nhiễm khuẩn có thủ thuật và dẫn lưu hoặc thông khí có nguy cơ tái nhập viện khoa cấp cứu cao hơn (OR: 1,1).
Nguồn: http://www.cddep.org/blog/posts/weekly_digest_us_century_cures_act_ch
Nhiễm khuẩn bệnh viện kháng thuốc, Pseudomonas aeruginosa, tăng đều đặn ở trẻ em Hoa Kỳ trong thập kỷ qua. Trong nghiên cứu đăng trên tạp chí Hội nhiễm khuẩn nhi khoa, các nhà khoa học CDDEP và cộng sự báo cáo sự gia tăng của Pseudomonas aeruginosa đa kháng thuốc và kháng carbapenem giai đoạn 1999 và 2012. Tỷ lệ P. aeruginosa đa kháng thuốc tăng từ 15,4% năm 1999 lên 26% năm 2012 và kháng carbapenem tăng từ 9,4% lên 20%. Nghiên cứu này nhấn mạnh sự cần thiết của chiến lược dự phòng tích cực, bao gồm giám sát vi khuẩn và chương trình quản lý kháng sinh trong các cơ sở nhi khoa.
Xem thêm: http://www.cddep.org/blog/posts/weekly_digest_mdr_pseudomonas_increasing_us_children_unicef_reports_14_million_children#sthash.1G4F11LO.dpuf